Năm Ất Mùi nói chuyện dê

05/03/2015 15:57:00

Theo Bildschromik der Welt Geschichte của nhà xuất bản Coventgarden, loài dê Bezoarziegen có cách dây 50.000 năm với tên khoa học là Capra sp., thuộc loại động vật có vú, bộ móng chân, loại nhai lại, có sừng rỗng, 8 răng cửa hàm dưới và răng hàm, không có răng cửa hàm trên. Dê là loài vật thích leo trèo và có thể nhảy từ mỏm đá này sang chỗ khác cao xa hơn. Dê có thể nhịn nước lâu ngày trong sa mạc, có sức chịu đựng mưa nắng, tuyết phủ... Thức ăn của chúng thường là cỏ cây, lá dâu, các loại chồi non...
 

Thời đồ đá, con người thường săn bắt dê để làm thực phẩm, sau đó đem về thuần hóa thành gia súc, một trong số sáu con vật nuôi thông thường là dê, gà, chó, lợn, ngựa, trâu. Cùng với heo và bò, dê là một trong ba con vật được dùng trong 'hiến tế'.
 

Theo y học hiện đại, thịt dê chứa nhiều vitamin nhóm B, nhất là Riboflavin và B12, giúp hồi phục sức khỏe nhanh cho người già, tăng cường sinh lực cho phái mạnh và đặc biệt món chân dê hầm rất tốt cho phụ nữ sau sinh nở. Thịt dê giàu chất đạm, ít chất béo hơn thịt bò và cung cấp ít calo hơn thịt gà nướng. Thịt dê còn là nguồn cung cấp tốt về chất sắt dưới dạng heme rất dễ hấp thu nên khá tốt đối với người bị thiếu máu. Ngoài ra, tỷ lệ kẽm trong thịt dê cũng tương đối cao. Như vậy, thịt dê là thực phẩm rất bổ dưỡng mà phụ nữ mang thai nên lựa chọn.
 

Chúng ta nên chọn thịt dê tươi ở những cơ sở bán thịt dê có uy tín để có thể chế biến thành các món ăn ngon, bổ ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam như: cháo thịt dê, dê tái chanh, canh sơn dược thịt dê, ngọc dương tiềm thuốc bắc, dê nướng mọi, dê hấp lá tía tô, vú dê nướng...
 

Theo Đông y, thịt dê (dương nhục) có vị ngọt, tính nóng và 100 gram thịt dê cung cấp 203 Kcal.
Dê được nuôi để lấy thịt, sữa, xương, gan, thận, sừng... để làm thuốc chữa bệnh và bồi dưỡng cơ thể.

- Thịt dê có vị ngọt, tính nóng chữa suy nhược, ốm yếu, đau bụng, vào các kinh tỳ, vị, can.
- Tim dê có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ tim, chữa các bệnh thuộc hệ tuần hoàn, cơ tim suy yếu, huyết áp thấp.
- Tiết dê có vị mặn, tính nóng, tác dụng giải độc, làm thuốc bổ máu, chữa choáng váng chóng mặt, nhức đầu, đau lưng, sau sinh không thấy hành kinh.
- Sừng dê vị mặn, tính lạnh, không độc, chữa bụng to có thũng, động kinh, loạn huyết, liệt dương.
- Sữa dê có vị mặn, ngọt, tính mát, tác dụng bổ dưỡng rất cao, nhuận tràng nhẹ, dễ tiêu, rất tốt cho cơ thể trẻ em, người ốm và người cao tuổi, chữa dị ứng mũi, hen và eczema.
- Xương dê có vị mặn, tính bình, tác dụng làm tăng cường sức khỏe, được nấu cao để bồi dưỡng cho người gầy yếu, mới ốm dậy.
 

MỘT SỐ BÀI THUỐC HAY
1. Cháo xương dê sâm kỳ linh táo: Xương dê 100 g, hoàng kỳ 30 g, nhân sâm 6 g, phục linh 15 g, đại táo 5 quả, gạo tẻ 100 g. Đem các dược liệu sắc lấy nước, dùng nước sắc nấu với gạo thành cháo, xương dê đập nhỏ ninh nhừ (nếu dùng cao xương dê thì chỉ cần cho vào cháo 10 g khuấy tan), khi cháo chín nhừ thêm gia vị thích hợp. Dùng cho các trường hợp gầy sút dễ cảm cúm, tự hãn, cơ thể suy nhược.
 

2. Xương dê hầm sơn dược: Xương dê 250 g (cao xương dê 10 g), sơn dược 100 g, kỷ tử 25 g, long nhãn 15 g, đại táo 10 quả. Tất cả hầm chín nhừ thêm gia vị. Cho ăn buổi tối trước khi đi ngủ. Dùng cho người bệnh thận dương hư, di tinh liệt dương...
 

3. Đương quy sinh khương dương thang: Thịt dê 200 g, gừng tươi 12 g, đương quy 20 g. Thịt dê làm sạch thái lát, gừng cạo vỏ ngoài đập giập, nấu với đương quy thái lát và một lượng nước thích hợp. Khi thịt chín nhừ, vớt bỏ bã thuốc, thêm gia vị, bột tiêu. Ăn 2 - 3 lần trong ngày. Dùng cho người cao tuổi thể trạng suy nhược, phụ nữ sau sinh, huyết hư thiếu máu, người bệnh suy nhược sau bị bệnh lâu ngày; trường hợp trúng hàn phúc thống.
 

4. Đương quy dương cốt canh: cao xương dê 10 - 15 g, hoàng kỳ 25 g, đảng sâm 25 g, đương quy 25 g , cao xương dê thái mỏng, hoàng kỳ, đảng sâm, đương quy thái nhỏ, dùng vải xô gói lại, nấu với một lượng nước thích hợp. Khi mọi thứ đã chín nhừ, cho gừng tươi đập giập, muối ăn và các gia vị khác thích hợp, tiếp tục cho sôi đều, lấy bỏ bã thuốc. Ăn nóng. Dùng cho phụ nữ sau sinh, cơ thể suy nhược thiếu máu, sốt nhẹ, vã mồ hôi, lạnh tay chân.
 

5. Súp cao dê củ mài: Cao dê 15 g, gừng tươi 15 g; hành tươi 30 g, sơn dược 500 g. Cao dê cắt mỏng, gừng tươi, hành tươi đập giập để sẵn, sơn dược thái lát. Tất cả cho vào nồi, thêm bột tiêu, dấm, rượu, nước sạch. Đun to lửa, vớt bỏ váng bọt, đun nhỏ lửa cho chín. Vớt bỏ bã gừng hành, thêm gia vị. Chia ăn nhiều bữa. Chữa các trường hợp suy nhược cơ thể, huyết trắng, trẻ em suy dinh dưỡng, ho lâu ngày do viêm khí phế quản, tiêu chảy.
 

6. Cháo hành nước cốt gan dê: Gan dê 1 bộ thái lát, nấu hầm lấy nước, gạo tẻ 100 g nấu cháo đặc, thêm nước cốt gan dê, hành củ, gia vị mắm muối, đun lại cho sôi đều. Dùng cho các trường hợp giảm thị lực.
 

7. Cháo gan dê cà rốt: Gan dê 150 g, cà rốt 100 g, gạo tẻ 100 g. Gạo tẻ đem nấu cháo; cà rốt gọt vỏ thái lát cho vào cháo đun nhỏ lửa 15 - 20 phút; gan dê thái lát ngâm với rượu dấm gừng trong 10 - 15 phút, sau đó xào tái với hành tỏi, cho vào cháo khuấy đều thêm gia vị. Dùng cho các trường hợp quáng gà mờ mắt giảm thị lực, suy nhược chức năng gan.
 

8. Cháo tủy dê: Xương sống và xương chậu, xương đùi 300 - 500 g, gạo tẻ 500 g. Nấu cháo thêm gia vị thích hợp; hoặc xương tủy sống chặt khúc nấu cùng với gạo thành cháo, bỏ xương và vớt bỏ nước váng mỡ, thêm gia vị. Ăn khi đói. Dùng cho các trường hợp mỏi mệt, đau lưng mỏi gối ở người cao tuổi.
 

9. Cháo xương dê: Xương dê (dương cốt) khoảng 1000 g (cao xương dê: 15 g), gạo tẻ 100 g. Xương dê làm sạch, chặt khúc (cao xương dê thái mỏng) đem nấu cháo với gạo tẻ; cháo thêm muối, gừng tươi, hành, gia vị. Cho ăn nóng khi đói. Dùng cho các trường hợp xuất huyết dưới da do giảm tiểu cầu, thiếu máu do thiếu dinh dưỡng.
 

BSCKI Huỳnh Liên Đoàn

Các tin đã đăng