- Current
Bệnh viêm khớp dạng thấp
19/10/2015 10:47:00
Đại cương
Từ lâu, người ta rất sợ chứng viêm khớp dạng thấp (VKDT), bởi nó là một trong những loại viêm khớp gây tàn phế nhiều nhất. Người bệnh VKDT nếu không được điều trị đúng cách sẽ diễn tiến mạn tính với những đợt tiến triển liên tiếp, các khớp nhanh chóng bị biến dạng và không thể hồi phục. VKDT được biết là một bệnh lý tự miễn, gây tàn phế, biến chứng toàn thân, tử vong sớm và tốn kém về mặt kinh tế - xã hội.
Gần đây có những thông tin mới về triển vọng được cải thiện tốt ở một số người bệnh mới được chẩn đoán là VKDT. Song VKDT vẫn đang là một bệnh nghiêm trọng và rất phức tạp. Theo các nhà thấp khớp học, hiện nay có những phương pháp mới nhằm điều trị tình trạng viêm do VKDT gây ra. Họ cũng hiểu biết rõ hơn việc sử dụng các phương pháp điều trị vào lúc nào và làm sao để có được hiệu quả tốt nhất.
Định nghĩa
VKDT là bệnh viêm khớp mạn tính, thường xảy ra cho các khớp nhỏ của bàn tay và bàn chân. Khác với chứng viêm xương - khớp mà khởi đầu là sụn khớp bị thương tổn, VKDT tác động đầu tiên vào lớp bao lót mặt trong các khớp - tức là bao hoạt dịch của khớp - gây phù, cứng khớp và đau mà cuối cùng là xương bị bào mòn đưa đến biến dạng và di lệch khớp.
VKDT là loại gặp nhiều nhất trong các loại viêm khớp. Người ta thống kê có tất cả trên 100 loại viêm khớp, trong đó, 3 loại đứng hàng đầu là viêm khớp dạng thấp, viêm xương - khớp và viêm khớp trong bệnh vảy nến.
Là một bệnh tự miễn, VKDT nói chung xảy ra khi hệ thống miễn dịch của bạn tấn công một cách sai lầm vào các mô của chính cơ thể bạn. Trong VKDT, ổ viêm chính nằm tại lớp bao lót mặt trong khớp (tức bao hoạt dịch). VKDT gặp ở trên 1,3 triệu người Mỹ, trong đó, có khoảng 75% là phụ nữ. Thực tế, 1 - 3% phụ nữ có thể bị VKDT trong suốt quãng đời của họ. Bệnh thường bắt đầu từ sau lứa tuổi 40, tuy nhiên, có thể bắt đầu vào bất cứ tuổi nào. Ngoài việc gây ra những vấn đề cho khớp, tình trạng viêm đôi khi ảnh hưởng đến các tạng khác của cơ thể như da, mắt, phổi hay các mạch máu.
Nguyên nhân & Cơ chế gây bệnh
VKDT là một bệnh tự miễn nhưng cơ chế gây bệnh hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy VKDT gây ra do sự tương tác giữa yếu tố gen nhạy cảm (HLA-DR4) và yếu tố môi trường (nhiễm khuẩn, khói thuốc lá, ô nhiễm môi trường…) gây ra đáp ứng miễn dịch, sản xuất ra các tự kháng thể (RF, anti-CCP) và các hóa chất trung gian gây viêm bao hoạt dịch khớp, đưa đến quá trình tự phá hủy sụn và xương của khớp. Ngoài ra, có thể có vai trò của một số các yếu tố khác, như các yếu tố di truyền khiến một số người dễ mắc chứng VKDT hơn.
Triệu chứng
VKDT là bệnh khớp diễn biến mạn tính gây ra đau, cứng khớp, phù và hạn chế vận động thường là của nhiều khớp. VKDT có thể tác động đến mọi khớp nhưng thường bị đầu tiên là các khớp nhỏ, đặc biệt là các khớp của ngón tay đến bàn tay và của ngón chân đến bàn chân. Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng thường lan rộng sang các cổ tay, các đầu gối, các cổ chân, các khuỷu, các háng và các vai. Trong đa số các trường hợp, VKDT biểu hiện sưng đau trên nhiều khớp, thường đối xứng hai bên, đặc biệt là ở các khớp của bàn tay hay bàn chân. Tuy nhiên, trong một số ít trường hợp, người bệnh có biểu hiện sưng đau chỉ một khớp duy nhất.
Các thời kỳ tiến triển bệnh xen kẽ với các thời kỳ tạm thoái lui. Nếu không được điều trị đúng cách, VKDT sẽ có diễn tiến mạn tính với những đợt tiến triển liên tiếp, các khớp nhanh chóng bị biến dạng và không thể hồi phục.
Chứng cứng khớp trong VKDT hoạt động thường là nặng nhất về sáng. Nó có thể kéo dài 1 - 2 giờ (có khi là cả ngày). Cứng khớp kéo dài về sáng là lý do để nghĩ rằng bạn có thể mắc chứng VKDT vì chỉ có một số ít các chứng viêm khớp khác là diễn ra theo cách đó. Các dấu hiệu và triệu chứng khác của VKDT bao gồm:
+ Mất sinh lực, mệt mỏi, các cơn sốt nhẹ và sụt cân, ăn không ngon miệng.
+ Khô mắt và khô miệng: hội chứng Sjogren.
+ Các nốt rắn chắc, gọi là các nốt của bệnh thấp, ở trong mô dưới da tại các nơi như khuỷu tay và bàn tay.
+ Khi bệnh tiến triển, sự lắng đọng các mô sợi lên trên sụn tạo ra các pannus, làm phá hủy sụn và đôi khi đưa đến dính các đầu xương. Pannus là mô viêm hạt sản xuất từ bao hoạt dịch của khớp, phủ lên sụn khớp trong một số trường hợp VKDT. Như vậy, sau biến dạng là sự hạn chế vận động của các khớp.
Các biến chứng
So sánh tỷ lệ loãng xương đo ở nhiều vị trí giữa nhóm bệnh nhân VKDT và nhóm dân số chung ở các lứa tuổi.
+ Loãng xương còn là biến chứng của điều trị VKDT không đúng cách. Việc lạm dụng các thuốc giảm đau hoặc sử dụng các chế phẩm “giả danh”, mà thực chất trong đó có pha corticosteroid, làm giảm đau nhanh chóng nhưng để lại hậu quả về sau cực kỳ nghiêm trọng như tăng huyết áp, đái tháo đường, loãng xương, béo phì…

+ Các vấn đề tim mạch. Các động mạch có thể bị cứng và bị tắc, cũng như viêm màng ngoài tim.
+ Bệnh phổi. Người bệnh VKDT có nguy cơ tăng viêm và xơ hóa mô phổi, có thể dẫn đến khó thở tăng dần.
Chẩn đoán
VKDT có thể khó phát hiện vì nó có thể bắt đầu bằng các triệu chứng khá mơ hồ như các khớp bị đau hay hơi cứng về sáng, nhiều khi cần khám các nhà thấp khớp học để có được chẩn đoán chính xác và một kế hoạch điều trị thích hợp.
Chẩn đoán dựa vào các triệu chứng thực thể như các khớp sờ thấy ấm, phù và đau. Vài xét nghiệm máu cũng cần thiết. Các dấu hiệu chỉ điểm bao gồm:
+ Thiếu máu (số đếm hồng cầu thấp).
+ Yếu tố thấp khớp (một kháng thể, hay một protein trong máu, tìm thấy ở khoảng 80% người bệnh VKDT nhưng có khi thấp đến 30% ở thời kỳ khởi đầu).
+ Các kháng thể đối với cyclic citullinated peptides (gọi tắt là anti-CCP) gặp ở 60 - 70% số người bệnh VKDT.
+ Tốc độ hồng cầu lắng tăng (tương ứng với mức độ viêm của các khớp).
+ X-quang có thể giúp phát hiện VKDT nhưng có thể chưa thấy gì bất thường ở giai đoạn sớm. Chụp cộng hưởng từ và siêu âm giúp cho đánh giá độ nặng của VKDT.
Điều trị
Không có gì chữa khỏi được VKDT. Thuốc có thể làm giảm viêm các khớp, giảm đau và dự phòng hoặc làm chậm các tổn thương của khớp.
Các thuốc:
+ Các kháng viêm không steroid. Các thuốc mạnh có thể gây ù tai, đau dạ dày, các vấn đề của tim, tổn thương gan và thận.
+ Các steroids. Các corticosteroid, ví dụ prednisone, làm giảm viêm và đau, làm chậm tổn thương khớp. Các tác dụng phụ: loãng xương, tăng cân và đái tháo đường.
+ Các DMARDs (disease-modifying antirheumatic drugs - các thuốc kháng thấp làm thuyên giảm bệnh). Các thuốc này làm chậm tiến triển của VKDT và hy vọng có thể điều trị “tận gốc” bệnh VKDT, giúp ổn định bệnh và làm giảm nguy cơ dẫn đến các biến chứng, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống. Các thuốc thường dùng là: methotrexate (Trexall), leflunomide (Arava), hydroxychloroquine (Plaquenil) và sulfasalazine (Azulfidine).
+ Các yếu tố sinh học. Đây là một số loại thuốc tổng hợp mới của DMARDs tác động vào các thành phần của hệ miễn dịch gây ra tình trạng viêm và làm hư hại khớp. Các thuốc này có nguy cơ làm tăng nhiễm khuẩn.
Nếp sống cho người viêm khớp
+ Tập đều đặn. Tập nhẹ nhàng bắt đầu bằng đi bộ. Thử bơi và tập nhẹ aerobics dưới nước. Tránh tập các khớp đau, tổn thương hay viêm nặng.
+ Chườm nóng hay lạnh. Chườm nóng giúp giảm đau và thư giãn. Chườm lạnh gây tê bì, giảm đau và co thắt cơ.
+ Thư giãn. Tìm cách đương đầu với đau bằng cách giảm căng thẳng trong cuộc sống. Bên cạnh việc tuân thủ điều trị, người bệnh VKDT cần có một lối sống tích cực: không hút thuốc lá, luyện tập thể dục, ăn uống điều độ, kiêng chất béo bão hòa (có nhiều trong trứng, thịt gia súc, gia cầm), ăn nhiều chất béo thực vật, cá và hoa quả tươi.
ThS BS Trần Đăng Khoa
Các tin đã đăng
- Làm đẹp cho da từ đắp mặt nạ (03/11/2015)
- Những thói quen gây hại cho tim mạch(26/10/2015)
- Ngăn ngừa và phát hiện sớm Ung thư Cổ Tử cung(21/10/2015)
- Hướng dẫn tự khám Vú(20/10/2015)
- Chỉnh hình răng-mặt (niềng răng) (20/10/2015)
- Hội chứng ống cổ tay(19/10/2015)