- Current
Phiếu tóm tắt thông tin điều trị cho người bệnh ngoại trú chẩn đoán và điều trị bạch biến
18/08/2022 15:30:00
1. Bạch biến là gì?
- Bệnh bạch biến là một loại bệnh da liễu thường gặp mà trong đó các tế bào sắc tố da bị phá hủy từ đó làm thay đổi màu da. Bệnh biểu hiện bởi những dát, mảng giảm sắc tố so với vùng da xung quanh, không ngứa, không đóng vảy, giới hạn rõ. Đây là bệnh lành tính, không lây, và có ảnh hưởng nhiều về mặt thẩm mỹ.
- Bệnh bạch biến có thể gặp mọi lứa tuổi và mọi giới. Lứa tuổi thường gặp nhất là từ 10-30, hơn 50% xảy ra trước 20 tuổi và có thể gặp bệnh bạch biến ở trẻ em. Bệnh phân bố nhiều ở các nước vùng nhiệt đới và ở những chủng người da màu. Bệnh có tính chất gia đình nhưng chưa có nghiên cứu nào khẳng định chắc chắn bệnh bạch biến có liên quan đến di truyền.
- Bệnh ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống và tâm lý của người bệnh, đặc biệt ở sự phức tạp của nguyên nhân cũng như những khó khăn trong điều trị.
- Hiện chưa có số liệu nghiên cứu chính xác về tỷ lệ bạch biến tại Việt Nam. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ bệnh chiếm 1%. Bệnh có tính chất gia đình trong khoảng 30% các trường hợp. Hầu hết người bệnh đều khỏe mạnh, có kết hợp với các bệnh lý tự miễn khác như bệnh tuyến giáp, đái tháo đường, thiếu máu, thiểu sản tủy. Do đó, ngoài khía cạnh thẩm mỹ, cần quan tâm chú ý đến các bệnh lý đi kèm.
2. Nguyên nhân có thể gây ra Bạch biến là gì?
- Nguyên nhân chính gây nên bệnh bạch biến là do có sự giảm số lượng và chất lượng của các tế bào sắc tố ở da. Bình thường, các tế bào sắc tố có nhiệm vụ sản xuất ra các hạt melanin là sắc tố tạo nên màu của da của một người.
- Khi bị bạch biến, số lượng tế bào sắc tố của người bệnh sẽ ít hơn so với người bình thường hoặc số lượng tế bào không thay đổi nhưng các tế bào này làm việc không hiệu quả, dẫn đến tạo ra ít các hạt sắc tố hơn. Hậu quả làm một vài vùng da bị nhạt màu hơn so với những vùng còn lại của cơ thể.
- Hiện nay, vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân khiến cho số lượng và chất lượng tế bào sắc tố bị suy giảm. Một vài giả thuyết được đề ra bao gồm:
2.1. Miễn dịch
Một số người mắc các bệnh lý về tuyến giáp, tuyến thượng thận, tuyến sinh dục hay gan tụy sẽ tồn tại trong cơ thể loại kháng thể có thể tiêu hủy các tế bào sắc tố ở da. Các tế bào này gây nên bạch biến. Vì thế, người bệnh có thể mắc kèm theo các bệnh lý ở các cơ quan kể trên.
2.2. Di truyền
Bạch biến có thể liên quan đến di truyền và tỷ lệ này khoảng 30%. Khi cha, mẹ hoặc anh chị mắc bệnh thì con của họ có nhiều khả năng bị bạch biến hơn.
2.3. Nguyên nhân khác
- Một số giả thiết cho rằng tiếp xúc với các hóa chất từ bên ngoài như Phenol, Thiol… có thể tác động trực tiếp lên tế bào sắc tố và gây bệnh.
- Một số thuốc ức chế hệ miễn dịch của cơ thể như pembrolizumab, nivolumab… cũng có thể khởi phát bệnh bạch biến.
- Ngoài ra, bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm siêu vi cũng được coi là nguyên nhân có thể gây nên bệnh bạch biến.
3. Triệu chứng bệnh Bạch biến
Biểu hiện của bệnh bạch biến rất dễ nhận biết nhờ vào các đặc điểm sau:
3.1. Dát, khoảng nhạt màu
- Trên da người bệnh xuất hiện những mảng có màu trắng, hơi hồng, có giới hạn rõ và nhạt màu hơn hẳn so với vùng da xung quanh.
- Da vùng bị bạch biến không có vảy, không đau, ngứa và vẫn có cảm giác bình thường giống như vùng da lành. Trên các mảng nhạt màu này, lông và tóc cũng có thể bị bạc màu.
- Các khoảng nhạt màu này rất nhạy cảm với tia cực tím của ánh nắng mặt trời. Nếu không che chắn kỹ, tại các vị trí bạch biến sẽ bị bỏng nắng và có một vài trường hợp sau khi bị bỏng nắng lại khởi phát bệnh.
3.2. Vị trí
- Các dát hay mảng nhạt màu này thường xuất hiện ở những vùng phơi bày dưới ánh sáng như tay, chân, mặt.
- Người bệnh có thể bị một vài mảng ở một vài vị trí trên cơ thể hoặc có thể bị lan tỏa, đối xứng khắp cơ thể và phân loại thành:
+ Bạch biến thể phân đoạn: có thể xuất hiện một mảng ở một đoạn cơ thể, hai đoạn hay nhiều đoạn không liên tiếp nhau.
+ Bạch biến không phải thể phân đoạn: các mảng xuất hiện lan tỏa khắp cơ thể và có xu hướng phân bố đối xứng hai bên cơ thể.
+ Thể bạch biến hỗn hợp: kết hợp của bạch biến thể phân đoạn và bạch biến không phải thể phân đoạn.
+ Trường hợp bạch biến không phân loại được: xuất hiện các điểm bạch biến không đối xứng nhau và không phân đoạn như trường hợp kể trên.
4. Chẩn đoán bệnh Bạch biến?
Chẩn đoán bệnh bạch biến dựa vào yếu tố gợi ý, biểu hiện bệnh và các xét nghiệm.
4.1. Yếu tố gợi ý
Người thân trong gia đình bị mắc bạch biến gợi ý bệnh liên quan đến di truyền.
Có các bệnh lý về tuyến giáp, tuyến thượng thận, tuyến sinh dục, gan, tụy gợi ý bệnh liên quan đến tự miễn.
4.2. Biểu hiện
Xuất hiện những dát, mảng nhạt màu giới hạn rõ, không có vảy, không đau, không ngứa và nhạy cảm với ánh nắng mặt trời.
4.3. Xét nghiệm
- Chẩn đoán chính xác bệnh bằng phương pháp sinh thiết vùng da nghi ngờ bị bạch biến.
- Kiểm tra các bệnh tự miễn có liên quan ở các cơ quan tuyến giáp, tuyến thượng thận, tuyến sinh dục, gan tụy…
Bệnh bạch biến là một bệnh lý da lành tính. Tuy nhiên, để điều trị triệt để cần tìm các nguyên nhân gây ra bệnh.
5. Các phương pháp nào giúp điều trị Bạch biến?
5.1. Điều trị bạch biến không ổn định (bệnh còn đang tiến triển)
- Corticoid toàn thân: Betamethason hoặc dexamethason 5 mg đường uống trong 2 ngày liên tiếp/tuần trong 4 -6 tháng, liệu pháp này làm ngừng tiến triển bệnh ở trên 90% người bệnh. Phối hợp điều trị với liệu pháp ánh sáng Sau khi bệnh ngừng tiến triển
- Methotrexate (MTX): Sử dụng MTX 10mg/tuần đường uống trong 24 tuần có hiệu quả tương đương dexamethason trong kiểm soát tiến triển bệnh.
- Minocyclin: Sử dụng minocyclin đường uống 100mg/ngày/6 tháng cho kết quả tương đương betamethasone.
- Ginkgo biloba: Làm giảm tiến triển của bệnh với liều uống là 40 mg x 3 lần/ngày trong 6 tháng
5.2. Điều trị bạch biến ổn định (bệnh ngừng tiến triển trong vòng 1 năm)
- Corticoid tại chỗ: Sử dụng corticoid tại chỗ loại mạnh- loại II theo phân loại của Mỹ (betamethasone valerat, clobetasol) bôi 1 lần/ngày, không quá 3 tháng. Có thể phối hợp với liệu pháp ánh sáng cho hiệu quả cao
- Thuốc ức chế calcineurin: Theo một vài nghiên cứu, thuốc ức chế calcineurin có hiệu quả tương đươngvới clobetasol 0.05% và ít tác dụng phụ hơn. Do đó, thuốc được ưu tiên điều trị cho tổn thương vùng mặt, cổ để hạn chế tác dụng phụ của corticoid
+ Cách dùng: Bôi 2 lần/ngày trong 6 tháng, nếu đáp ứng có thể dùng trên 12 tháng. Với tổn thương ở đầu chi có thể băng bịt qua đêm.
+ Tỉ lệ tái phát sau dừng thuốc khoảng 15% sau 6 tháng, do đó cần bôi duy trì để hạn chế sự tái phát.
+ Phối hợp bôi tại chỗ thuốc ức chế calcineuron với điều trị với ánh sáng đặc biệt là laser excimer cho hiệu quả điều trị cao.
- Thuốc calcipotriol: Calcipotriol không được khuyến cáo sử dụng đơn độc nhưng dùng kết hợp với corticoid làm tăng tác dụng của thuốc
- Chiếu UVB dải hẹp (NB-UVB): Tia UVB dải hẹp hiện nay là đại diện cho liệu pháp điều trị ánh sáng đối với bạch biến không hoạt động. Liệu pháp này có thể làm phục hồi sắc tố > 75% ở trên 70% người bệnh và tỉ lệ tái phát thấp hơn các phương pháp điều trị tại chỗ khác.
+ Phác đồ điều trị: chiếu 2-3 lần/tuần trong ít nhất 3 tháng, sau đó có thể kéo dài đến 1 năm, ngừng điều trị nếu sau 3 tháng không có tác dụng hoặc phục hồi sắc tố <25% sau 6 tháng.
+ Tác dụng phụ thường gặp là đỏ da, ngứa, sạm da
+ Có thể phối hợp NB-UVB với corticoid bôi, tacrolimus bôi và các thuốc chống oxy hóa để tăng hiệu quả điều trị bệnh
- Thuốc hỗ trợ phục hồi sắc tố da: Repigma12 là một peptide có chuỗi 12 axit amin gắn với protein ức chế hoạt động u hắc tố bào (Melanoma Inhibitory Activity – MIA) có tác dụng ức chế hoạt động lên tế bào hắc tố. Điều này giữ cho các tế bào hắc tố Melanocytes ổn định trong khi tái tạo sắc tố của khu vực bị ảnh hưởng được kích thích thông qua liệu pháp quang trị liệu bằng cách tiếp xúc với ánh nắng mặt trời (tránh bỏng) hoặc bức xạ tia tử ngoại (UVA hoặc UVB). Có thể sử dụng thêm các viên chống nắng tăng cường đường uống để tăng hiệu quả bảo vệ da khi tiếp xúc ánh nắng mặt trời hoặc các bức xạ tia tử ngoại.
- Laser: Gồm laser excimer (bước sóng 308nm) và ánh sáng excimer. So với NB-UVB, excimer có hiệu quả hơn, đặc biệt bạch biến đoạn. Eximer cho tác dụng nhanh, chỉ sau vài lần chiếu đã có thể đã thấy phục hồi sắc tố, tác dụng này ổn định, không tái phát trong nhiều năm.
- Phẫu thuật: Nhằm thay thế tế bào hắc tố từ một vị trí hiến tặng tự thân có sắc tố bình thường. Tất cả các phương pháp đòi hỏi vô trùng nghiêm ngặt.
+ Ghép da
+ Ghép da từng điểm
+ Ghép da bọng nước.
+ Ghép da mỏng: Tỉ lệ phục hồi sắc tố cao nhất, 88% phục hồi > 75%.
+ Ghép tế bào
+ Ghép tế bào không qua nuôi cấy.
+ Ghép tế bào qua nuôi cấy
- Làm mất sắc tố: Ở những Người bệnh có bạch biến rộng và khó điều trị, làm mất sắc tố các vùng còn lại thông qua phương pháp hóa học hoặc vật lý có thể có tác dụng về mặt thẩm mỹ. Esteethyl monobenzone (MBEH) là dẫn xuất hydroquinone (HQ). Không giống như HQ, MBEH gây ra sự mất sắc tố gần như không thể hồi phục.
+ Người bệnh có da với típ da sẫm màu (típ V –VI theo Fitzpatrick), sự tương phản giữa màu da và tổn thương bạch biến quá rõ ràng, có thể là ứng cử viên tốt nhất để sử dụng liệu pháp này. Bên cạnh đó, Người bệnh có típ da sáng màu (I và II) có thể đạt được hiệu quả thẩm mỹ tốt hơn khi sử dụng các chất làm mất sắc tố so với các thuốc làm tái nhiễm sắc ở vùng tổn thương. Có thể sử dụng MBEH 20% bôi vào vùng da có sắc tố 2-3 lần/ngày. Tiếp xúc ánh nắng mặt trời trong thời gian dài nên tránh trong quá trình điều trị. Nên sử dụng thêm các loại kem chống nắng để hỗ trợ bảo vệ da.
+ Liệu pháp gây mất sắc tố da thường thu được kết quả sau 1-4 tháng điều trị . Sau 4 tháng điều trị không thành công, nên ngưng dùng thuốc. Khi đạt được mức độ mất sắc tố mong muốn, MBEH nên được dùng duy trì 2 lần /tuần. Laser ruby 755 nm Q-switched có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với methoxyphenol để gây mất sắc tố, dựa vào cơ chế phá hủy sắc tố và các tế bào chứa sắc tố.
+ Tuy nhiên:
Chỉ những người bệnh bạch biến biến có diện tích tổn thương lớn mới được sử dụng phương pháp này và chỉ sau khi thất bại với các liệu pháp khác. Người bệnh cần được giải thích rằng monobenzone là một chất làm mất sắc tố có hiệu quả, không phải là chất làm trắng da thẩm mỹ. Phương pháp này phải được thực hiện dưới sự hướng dẫn, theo dõi của bác sĩ chuyên khoa Da Liễu, Thẩm mỹ
Làm mất sắc tố cũng có thể bằng cách sử dụng laser Ruby Q-switched, đơn độc hoặc kết hợp với Methoxyphenol.
+ Các phương pháp điều trị khác nhằm làm giảm sự tương phản giữa da bệnh và da lành:
Trang điểm, xăm sắc tố màu da vùng bạch biến, kết hợp với các liệu pháp tâm lí.
Sử dụng kem chống nắng: Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự gia tăng nguy cơ ung thư ở người bệnh bạch biến so với người bình thường. Do đó, sử dụng kem chống nắng ở Người bệnh bạch biến được khuyến cáo tương tự như người bình thường. Ở những người bệnh điều trị bằng liệu pháp ánh sáng, cần tránh nắng tích cực, hạn chế tiếp xúc với tia UV từ môi trường và nên được kiểm tra da định kì.
6. Người bệnh Bạch biến cần chăm sóc da tại nhà như thế nào?
6.1. Bảo vệ da khỏi ánh nắng mặt trời
- Làn da bạch biến đã mất đi sắc tố da tự nhiên nên càng nhạy cảm và dễ bị cháy nắng hơn. Để bảo vệ làn da dưới ánh nắng mặt trời, cần phải:
+ Sử dụng kem chống nắng mỗi ngày: Sử dụng kem chống nắng lên toàn bộ phần da không được che phủ bởi quần áo, ít nhất 15 phút trước khi ra ngoài. Lưu ý chọn kem chống nắng chống đc tia UVA/UVB; có chỉ số SPF từ 30 trở lên và chống nước. Sau các hoạt động ngoài trời, hãy nhớ thoa lại kem chống nắng sau mỗi 2 tiếng, sau khi ở dưới nước hoặc đổ mồ hôi.
+ Mặc quần áo bảo vệ da dưới ánh nắng mặt trời: Nên mặc quần áo có chỉ số chống nắng SPF cao.
6.2. Tránh nhuộm da (bằng giường tắm nắng và đèn mặt trời) và xăm hình
- Nhuộm da bằng giường tắm nắng và đèn mặt trời được cho một cách nhuộm da thay thế ánh nắng mặt trời trực tiếp. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đây không phải là giải pháp thay thế an toàn cho ánh nắng mặt trời vì vùng da bạch biến vẫn có thể bị cháy.
- Xăm mực tạo sắc tố vùng da lành có thể gây ra Hiện tượng Koebner, có thể dẫn đến hình thành một mảng da bạch biến mới có thể xuất hiện ở vị trí đó sau khoảng 10-14 ngày.
6.3. Sử dụng các sản phẩm trang điểm một cách an toàn
Có thể lựa chọn sử dụng các sản phẩm kem che khuyết điểm, hoặc màu trang điểm để làm đều màu da.
6.4. Duy trì lối sống lành mạnh
- Việc duy trì lối sống lành mạnh và suy nghĩ tích cực sẽ giúp ích cho người bị bệnh bạch biến. Người có da bạch biến thường hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nên có nguy cơ thiếu vitamin D – cần thiết cho xương và sức khỏe tuổi dậy thì. Mặt trời là nguồn vitamin D chính, tuy nhiên người có da bạch biến có thể tăng cường vitamin D qua thức ăn như trứng, sữa, cá, thịt đỏ, ngũ cốc và yến mạch.
- Người có da bạch biến thường mang tâm lý tự ti, dẫn đến các vấn đề về sức khỏe tinh thần. Do đó, họ cần hạn chế tối đa các căng thẳng tâm lý, tập thể dục thường xuyên. Thêm vào đó, việc tham gia trị liệu tâm lý và các cộng đồng người bạch biến cũng sẽ mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực.
Các tin đã đăng
- Phiếu tóm tắt thông tin điều trị bệnh vảy nến(04/07/2024)
- Phiếu thông tin bệnh viêm da cơ địa(04/07/2024)
- Phiếu thông tin bệnh vảy nến(04/07/2024)
- Phiếu tóm tắt thông tin điều trị cho người bệnh ngoại trú chẩn đoán và điều trị sẹo rỗ (15/06/2022)
- Phiếu tóm tắt thông tin điều trị cho người bệnh ngoại trú chẩn đoán u mềm treo(01/03/2021)
- Phiếu tóm tắt thông tin điều trị cho người bệnh ngoại trú chẩn đoán sẹo lồi(01/03/2021)